Sách “Tiếng Việt – Công nghệ giáo dục lớp 1” với nhiều thay đổi
về cách đánh vần cũng như nhiều bài học bị cho là có nội dung thiếu chuẩn mực
đối với học sinh lớp 1 đã được thí điểm ở 49 tỉnh, thành.
Khi xem cuốn sách “Tiếng Việt – Công nghệ giáo dục (CNGD) lớp 1”
do NXB Giáo dục Việt Nam xuất bản, nhiều phụ huynh “té ngửa” với những nội dung
bài học gây bức xúc.
Dạy trẻ những thói xấu
Dạy trẻ những thói xấu
Nhiều giáo viên (GV), phụ huynh cho rằng có những bài học nội
dung không phù hợp với trẻ. Ví dụ bài “Quả bứa” (trang 87, sách “Tiếng Việt –
CNGD lớp 1, tập 2”) kể câu chuyện 2 cháu Năm và Sáu đi qua vườn quả. Năm thấy
quả liền la (hô) to và Sáu nhặt quả bứa. Hai cháu giành qua giành lại, cậu Cả
đi qua và phân xử. Cậu Cả bổ quả bứa và phán: “Năm, mày thấy quả bứa, hãy nhận
lấy nửa vỏ này. Sáu, mày nhặt quả bứa, hãy nhận lấy nửa vỏ này. Dành phần ruột
trả thù lao cho quan tòa phân xử, của tao. Cậu Cả vừa ăn vừa bỏ đi”.
Theo đánh giá của một GV, lời lẽ trong câu chuyện rất phản cảm,
gọi nhau bằng mày – tao, ý nghĩa thì chỉ dạy các cháu cách sống tiểu xảo. Chưa
hết, sách còn có nhiều bài học mà trong câu chuyện lại ẩn hiện ý nghĩa “mớm”
cho trẻ những thói xấu như tọc mạch, xu nịnh, nói dối, châm biếm người khác…
Nhiều từ ngữ mang tính tiêu cực chứ không có ý nghĩa giáo dục. Một GV tại
Trường Tiểu học An Dương (TP Hải Phòng) phàn nàn có lần dạy đến câu “Năm năm
báo oán, đời đời đánh ghen”, một học sinh (HS) đã hỏi cô “đánh ghen” là gì
khiến cô giáo này lúng túng không biết phải giải thích thế nào cho các em HS
lớp 1 hiểu.
Tuy là bộ sách giáo khoa (SGK) được triển khai tới 49 tỉnh,
thành trên cả nước nhưng lại dùng quá nhiều từ địa phương như bể (biển), gà
qué, quả chấp, bé huơ, khươ mũ. Một GV phản ánh trang 47, quyển 1 sách “Tiếng
Việt lớp 1” có bài “Nghỉ hè cả nhà đi bể”. Rất nhiều HS không biết đi bể là đi
đâu vì trẻ em miền Nam chỉ biết đi biển. Bộ sách này cũng bị chính các GV phản
ánh là có nhiều từ láy khó với cả người lớn chứ đừng nói đến HS lớp 1 như thia
lia, thìa lìa, chon chót, sứt sát, quằm quặp, khuýp khuỳm khuỵp… Câu thành ngữ,
tục ngữ HS không hiểu mà chỉ học vẹt như “trăm thứ bà giằn”, “bạt ngàn san dã”,
“đổ vỡ tóe loe”…
Tranh cãi vì cách đánh vần lạ
Với cách đánh vần được dạy trong “Tiếng Việt – CNGD lớp 1”, HS
được dạy cách phân biệt giữa âm và chữ. Âm là vật thật, âm thanh, chữ là vật
thay thế, dùng để ghi lại, cố định lại âm. Theo đó, không phải lúc nào cũng có
sự tương ứng 1-1 giữa âm và chữ. Thông thường, một âm được ghi lại bằng một chữ
cái (a, b, d, đ, e, l, m…) nhưng ở sách này, một âm ghi lại bằng một chữ, nghĩa
là các chữ ghi âm có vai trò như nhau. Do đó, một âm /chờ/ được ghi lại bằng
một chữ ch (chữ: chờ) chứ không phải được ghép lại từ 2 chữ c và h. Có những
trường hợp một âm không phải chỉ được ghi lại bằng một chữ mà có thể là 2, 3, 4
chữ, do đó cần có căn cứ luật chính tả. Ví dụ : Âm “ngờ” được ghi bằng 2 chữ:
ng và ngh (ngờ kép). Âm “cờ” được ghi bằng 3 chữ: c (cờ), k (ca) và q (cu). Âm
“ia” được ghi bằng 4 chữ: iê, ia, yê, ya…
Về phát âm, theo sách “Tiếng Việt – CNGD lớp 1”, HS đánh vần
theo âm, không đánh vần theo chữ. Ví dụ “ca: /cờ/ – /a/ – ca”, “ke: /cờ/ – /e/
– /ke/”, “quê: /cờ/ – /uê/ – /quê/”… Do đánh vần theo âm nên khi viết phải viết
theo luật chính tả : Âm “cờ” đứng trước âm /e/, /ê/, /i/ phải viết bằng chữ k
(ca). Âm “cờ” đứng trước âm đệm phải viết bằng chữ q (cu), âm đệm viết bằng chữ
u…
Bà Nguyễn Thị Thanh Loan, Trung tâm Công nghệ Giáo dục, – NXB
Giáo dục Việt Nam, đơn vị biên soạn sách “Tiếng Việt – CNGD lớp 1”, cho hay mục
tiêu của bộ môn là HS phải đọc thông, viết thạo, nắm vững cấu trúc ngữ âm của
tiếng, nắm vững luật chính tả, từ đó HS không thể tái mù. Bà Loan khẳng định
với phương pháp này, HS được học luật chính tả rất kỹ, theo nguyên tắc gặp ở
đâu sẽ giải quyết ở đó. Nhờ đó, HS sẽ nắm luật rất kỹ và không bị viết sai
chính tả.
Bà Loan nói thêm với môn “Tiếng Việt – CNGD lớp 1”, các em sẽ
học cấu trúc ngữ âm của tiếng, không phải đi từ chữ rồi trở lại âm như chương
trình hiện hành, mà CNGD đi từ âm đến chữ, tức là đi từ trừu tượng đến cụ thể.
GS TS Nguyễn Văn Lợi – nguyên Phó Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học
Việt Nam – cho rằng đây là vấn đề khoa học và cần thận trọng khi đánh giá. GS
Lợi cũng băn khoăn khi cho rằng không thể đưa ra câu trả lời đánh giá đúng –
sai và tính hiệu quả trong giáo dục của chương trình cải cách. Tuy nhiên, ông
cho rằng nếu đưa chương trình dạy đại trà, phụ huynh chắc chắn sẽ thấy khó, vì
người ta không hiểu khái niệm để dạy cho con được. Ngay cả khái niệm “chữ” và
“âm”, thế nào là âm đầu, thế nào là âm cuối, thế nào là phần vần, âm đệm, đâu
là nguyên âm chính, âm cuối… đều rất khó đối với các phụ huynh và họ lo lắng là
điều dễ hiểu.
Cuốn sách đã được vào trường học như thế nào?
Chương trình CNGD của GS Hồ Ngọc Đại được thí điểm năm 1978, sau
đó năm 1985 được mở rộng ra các tỉnh. Đến năm 2000, chương trình được áp dụng
tại 43 tỉnh, thành nhưng sau đó bị tạm dừng vì Luật Giáo dục 2005 quy định thực
hiện một chương trình, một bộ SGK thống nhất trong cả nước. Năm 2008, chương
trình này được quay lại thực hiện ở 8 tỉnh. Năm học 2010-2011, Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo (GD-ĐT) lúc đó là ông Phạm Vũ Luận đã cho phép thí điểm bộ
sách này trong nhà trường. Đến nay, chương trình đã được áp dụng tại 49 tỉnh,
thành với hơn 800.000 HS.
GS Nguyễn Minh Thuyết, Tổng chủ biên chương trình phổ thông mới,
cho biết sách “Tiếng Việt – CNGD lớp 1” là tài liệu thực nghiệm khoa học, được
phép dạy trong một số trường tiểu học. Do được chỉ đạo ghép với mô hình trường
học mới (VNEN), nhiều tỉnh, thành muốn áp dụng VNEN đã tiếp nhận sách này, đưa
vào một số trường tiểu học ở địa phương. GS Thuyết khẳng định đây không phải
SGK nằm trong chương trình giáo dục phổ thông hiện hành, cũng không phải sách
viết theo chương trình giáo dục phổ thông mới.
Đầu năm 2017, Bộ GD-ĐT đã cử một số đoàn công tác đi khảo sát,
đánh giá hiệu quả thực hiện cuốn “Tiếng Việt – CNGD lớp 1” tại các địa phương
trên toàn quốc. Dựa trên kết quả khảo sát thực địa này, ngày 19-4-2017, bộ
trưởng Bộ GD-ĐT đã ban hành quyết định thành lập Hội đồng Quốc gia thẩm định
cuốn “Tiếng Việt – CNGD lớp 1”. Trên cơ sở kết luận của Hội đồng Quốc gia thẩm
định, NXB Giáo dục Việt Nam đã tổ chức chỉnh sửa tài liệu và xin lại ý kiến góp
ý của hội đồng. Sau khi được hội đồng góp ý, tài liệu này đã được chỉnh sửa,
đáp ứng yêu cầu và mục tiêu giáo dục ở cấp tiểu học.
"Nhiều chuẩn mực bị phá vỡ
Nhiều GV cho rằng nhiều chuẩn mực bị phá vỡ trong cuốn sách nhất
là khi được dạy cho HS ở độ tuổi tiểu học.
Hiệu trưởng một trường tiểu học tại quận 1, TP HCM cho rằng
nguyên tắc cơ bản của SGK phải là tính phổ thông, dễ hiểu, không phân biệt vùng
miền. Tuy nhiên, nhìn vào bộ sách, có vẻ như những người biên soạn chỉ soạn
sách cho một địa phương nào đó. Chẳng hạn, trong bài học về vần “oe”, trong
sách công nghệ minh họa bằng hình ảnh và 2 từ “gà qué” và “ngóe”. Nhiều phụ
huynh kêu trời vì không hiểu con “gà qué” và “con ngóe” là con gì. “Điều này đi
ngược với quy chuẩn về ngôn ngữ và tính đại trà trong giáo dục” – vị này nói.
Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Kim Thúy (TP Đà Nẵng) từng đặt ra
nhiều câu hỏi đề nghị bộ trưởng Bộ GD-ĐT làm rõ trách nhiệm trong việc thử
nghiệm bộ sách này. Cuối tháng 10-2017, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ đã có văn bản
phúc đáp về kết quả đánh giá tài liệu này. Theo đó, bên cạnh những ưu điểm, hội
đồng quốc gia thẩm định tài liệu này cũng chỉ ra nhiều nhược điểm như mục tiêu
giúp HS phát triển kỹ năng nói và nghe chưa được thể hiện trong tài liệu. Các
hướng dẫn, hoạt động giúp HS đọc hiểu bài đọc như tìm hiểu nghĩa của từ, nội
dung của câu và đoạn văn, trả lời câu hỏi đọc hiểu chưa được chú trọng. Vì vậy,
HS có thể đọc thành tiếng văn bản nhưng không hiểu nghĩa.
Bên cạnh đó, tài liệu cũng chưa đáp ứng tốt mục tiêu giữ gìn sự
trong sáng của tiếng Việt, hạn chế này thể hiện rõ nhất qua phần ngữ liệu. Việc
rèn luyện cho HS kỹ năng phân tích cấu trúc âm tiết và luyện phát âm đối với HS
bản ngữ (tiếng Việt) là không thật sự cần thiết và không phù hợp với phương
pháp học bản ngữ…."
Nguồn: Nld.com.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét